I. Tìm hiểu chung
1. Tác giả
Trần Quốc Tuấn hay còn gọi là Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn (1231 - 1300) là một danh tiếng đời Trần có công lớn trong ba cuộc kháng chiến chống quân Nguyên- Mông.
Trần Quốc Tuấn là một trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam. Sau khi lui về Vạn Kiếp ông mất năm 1300.
Ông được dân gian phong Thánh và lập đền thờ ở rất nhiều nơi
Một số tác phẩm tiêu biểu của ông có thể kể đến như: Binh thư yếu lược, Vạn kiếp tông bí truyền thư.
2. Tác phẩm
Hịch tướng sĩ hay còn có tên gọi khác là Dụ chư tì tướng hịch văn được ông viết vào năm 1285 trước cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông lần 2.
3. Hịch
a. Khái niệm
Hịch là một thể loại văn thư cổ mà các tướng lĩnh, vua chúa hoặc người thủ lĩnh của một tổ chức, một phong trào dùng để kêu gọi cổ vũ mọi người hăng hái chiến đấu tiêu diệt kẻ thù.
Hịch thường được viết theo lối văn tứ lục, cũng có khi viết bằng văn xuôi, hay thơ lục bát.
b.So sánh điểm giống và khác nhau giữa Hịch và Cáo:
Hịch
Cáo
Giống nhau
- Là thể loại văn nghị luận cổ
- Do Vua chúa hoặc thủ lĩnh một phong trào viết nên
- Cùng một mục đích ban bố công khai, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.
- Thường được viết bằng văn xuôi, văn vần hoặc biền ngẫu.
Khác nhau
- Do Vua Chúa, tướng lĩnh hoặc thủ lĩnh một phong trào dùng để cổ vũ, thuyết phục kêu gọi đấu tranh chống thù trong giặc ngoài
- Dùng để trình bày một chủ trương hay công bố kết quả một sự nghiệp để mọi người cùng biết.
II. Trải ngiệm cùng văn bản
Tóm tắt
Trước sự chủ quan, không lo tập luyện của tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn dẫn ra những dẫn chứng về sự trung thành của các vị tướng thời trước đến những dẫn chứng gần hơn trong lịch sử với chủ tướng của mình. Tác giả liệt kê hàng loạt những tội ác tày trời, dã man của giặc. Đồng thời bộc lộ sự căm phẫn của bản thân và tinh thần quyết tâm giết chết lũ giặc mọn đó. Trái ngược với sự lo lắng, quan tâm đến vận mệnh đất nước; những điều tốt đẹp mà Trần Quốc Tuấn mang lại cho quân của mình thì binh lính của ông lúc này chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, quyến luyến vợ con. Khi ấy, Trần Quốc Tuấn vô cùng đau xót. Ông đã chỉ rõ cho binh lính của mình thấy những hậu quả khôn lường, nguy hiểm chắc chắn sẽ xảy ra nếu tình trạng trên cứ tiếp tục kéo dài mãi. Sau khi thuyết phục được họ, Trần Quốc Tuấn đưa ra định hướng cho các tướng sĩ: đó là phải chăm chỉ học tập theo cuốn Binh thư yếu lược để bảo vệ đất nước.Dặn các tướng sĩ chuyên tập sách Binh thư yếu lược, theo lời dạy thì mới phải đạo thần chủ, nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta tức là nghịch thù.
III. Suy ngẫm và phản hồi
1. Hệ thống luận điểm, lí lẽ, bằng chứng.
a. Bố cục
Phần 1: Nêu những gương trung thần nghĩa sĩ trong sử sách để khích lệ ý chí lập công danh, xả thân vì nước.
Phần 2: Tố cáo sự hống hách và tội ác của kẻ thù, đồng thời nói lên lòng căm thù giặc.
Phần 3: Phân tích phải trái, làm rõ đúng sai trong lối sống, trong hành động của các tướng sĩ.
Phần 4: Nêu nhiệm vụ cụ thể, cấp bách, khích lộ tinh thần chiến đấu của tướng sĩ.
b. Hệ thống luận điểm, lí lẽ, bằng chứng của văn bản
TT
Luận điểm
Lí lẽ và bằng chứng
1
Các trung thần được ghi trong sử sách đều là những người vượt lên cái tầm thường, hết lòng phò tá quân vương, bảo vệ đất nước.
Những tấm gương trung thần nghĩa sĩ: Kỷ Tín, Do Vu, Dự Nhượng, Kính Đức, Cảo Khanh, Vương Công Kiên, Nguyễn Văn Lập, Cốt Đãi Ngột Lang, Xích Tu Tư.
2
Cần phải đánh bại quân giặc để trừ tai vạ về sau.
Sự ngược ngạo, tàn ác, tham lam của quân giặc.
3
Cần phải nhìn chủ nhục mà biết lo, thấy nước nhục mà biết nghĩ, luyện binh đánh giặc.
- Những thú vui tiêu khiển, sự giàu có cũng không thể chống lại quân giặc. Nếu để nước nhục thì chịu tiếng xấu muôn đời.
- Chỉ có luyện binh đánh giặc mới có thể chiến thắng, cửa nhà no ấm, tiếng thơm muôn đời.
4
Phải luyện theo Binh thư yếu lược để đánh thắng giặc mới được coi là phải đạo thần chủ, còn nếu khinh bỏ sách này thì là kẻ nghịch thù.
- Binh thư yếu lược là binh pháp do Trần Quốc Tuấn chộn từ các nhà hợp lại một quyển.
- Dựa vào đạo thần chủ, trước sự xâm lược của quân Mông - Nguyên, Trần Quốc Tuấn coi giặc là kẻ thù không đội trời chung.
- Nếu không rửa nhục cho chủ, cho nước thì muôn đời để thẹn, không còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa.
2. Một số yếu tố biểu cảm được sử dụng trong văn bản
Giọng điệu:
- Khi cần thể hiện lòng trung với chủ, với nước: giọng điệu tha thiết.
- Khi nói lí lẽ với các tướng sĩ: phân tích rõ ràng, giọng điệu mang tính khuyên bảo và răn đe.
- Khi kể về tội ác của kẻ thù: giọng căm phẫn, khinh bỉ, coi thường.
Hình ảnh so sánh: So sánh việc để quân giặc ngang nhiên ở Đại Việt không khác nào đem thịt mà nuôi hổ đói.
Ẩn dụ: coi quân giặc là cú diều, dê chó nhằm thể hiện sự khinh thường.
Tương phản:
- Hình ảnh các trung thần xả thân vì chủ, vì nước và hình ảnh tướng sĩ Đại Việt ngang nhiên nhìn quân giặc hống hách mà vẫn lo ăn chơi hưởng lạc.
- Tương phản giữa kết quả của việc không biết nhục mà đánh giặc và kết quả của việc biết rửa nhục cho nước, để đánh giặc.
3. Mục đích của từng phần
a. Nêu gương sáng trong sách sử
Ngay phần mở đầu, tác giả đã kể tên một loạt các tấm gương sáng trong sử sách trung quân.
- Tướng: Kỉ Tín, Do Vũ, Cảo Khanh, Kính Đức, Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang...
- Quan nhỏ: Thân Khoái
- Gia thần: Dự Nhượng
⇒ Bất kể thời đại nào, bất kể ai từ những viên quan nhỏ cho đến tướng lớn đều được kể tên. Lòng trung quân ái quốc như một luận cứ để làm cơ sở cho các lập luận phía sau.
b. Tố cáo sự ngang ngược của giặc và lòng căm thù giặc sâu sắc
Tác giả đã phanh phui tội ác dã man của kẻ thù thông qua các hình ảnh:
- Sứ giặc đi lại nghênh ngang
- Uống lưỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình
- Đem thân dê chó bắt nạt
- Đòi ngọc lụa, thỏa lòng tham
- Thu bạc vàng, để vét của kho
- Đem thịt mà nuôi hổ đói
- Sao cho khỏi tai vạ về sau
- ....
⇒ Tác giả đã sử dụng biện pháp nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa đẻ vạch trần tội ác, bản chất tham lam, tàn bạo hống hách của giặc.
⇒ Những tội ác man rợ nó càng nhen nhóm nên lòng quyết tâm của quân dân nhà Trần. Khích lệ lòng căm thù giặc và khơi gợi nỗi nhục mất nước.
Tâm sự của vị chủ tướng
Trước những đau khổ lầm than cùng cực mà nhân dân phải gánh chịu người làm tướng cảm thấy vô cùng day dứt.
- Ta thường tới bữa quên ăn
- Nửa đêm vỗ gối
- Ruột đau như cắt
- Nước mắt đầm đìa
- ....
⇒ Nhịp văn dồn dập, ngắn gọn, ngôn ngữ ước lệ giàu hình ảnh có giá trị biểu cảm lớn. Thể hiện sự sôi sục của vị tướng lĩnh.
⇒ Hàng loạt các thành ngữ mạnh được sử dụng “ Xả thịt lột da”, “nuốt gan uống máu”, “trăm thân này phơi ngoài lội cỏ, nhìn xác này gói trong da ngựa”.... Nghệ thuật phóng đại dùng điển cố thể hiện lòng yêu nước, sự căm thù giặc và tinh thần sẵn sàng hi sinh vì nghĩa lớn.
c. Phân tích đúng sai, phải trái
c.1.Mối quan hệ chủ tướng
Tác giả đã đưa ra mối thân tình giữa chủ và tướng:
- Các ngươi không có mặc - thì ta cho áo
- Không có ăn - thì ta cho cơm
- Quan nhỏ - thì ta thăng chức
- Lương ít - thì ta cấp bổng
- Đi thủy - thì ta cho thuyền
- Đi bộ - thì ta cho ngựa
- Cùng sống chết - cùng vui cười
⇒ Câu văn biền ngẫu nhiều ý, hai vế song hành điệp cấu trúc câu. Thể hiện cách đối xử chu đáo, tạo mối quan hệ khăng khít gắn bó.
⇒ Nhắc nhở khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa vụ của bề tôi đối với Vua tình cốt nhục như huynh đệ.
c.2.Biểu hiện sai trái
Bên cạnh đó tác giả còn phê phán những biểu hiện sau trái:
- Tình cảnh đất nước thấy chủ nhục - mà không biết lo
- Hầu quân giặc - mà không biết tức
- Thấy nước nhục - mà không biết thẹn
- Nghe nhạc - không biết căm
- Chỉ biết đâm đầu vào những thứ trò chơi vô bổ như chọi gà, đánh bạc, săn bắn, uống rượu....
- Thú vui ruộng vườn, quyến luyến
⇒ Tác giả phê phán thái độ bàng quan thờ ơ, ăn chơi nhàn rồi chỉ lo vun vén cá nhân mà quên đi danh dự bổn phận, mất cảnh giác, lối sống an hưởng lạc cần được lên án.
Thảm bại là tất yếu nếu không thay đổi
- Nếu ham chơi cựa gà trống - áp giáp giặc
- Mẹp cờ bạc - mưu lược nhà binh
- Rượng lắm - việc quân cơ
- Tiền của nhiều - không mua được
- Chén rượu ngon - giặc say chết
- TIếng hát hay - giặc điếc tai
⇒ Nước mất, nhà tan, bị bắt làm tù binh bị mất tất cả, chịu nhục mang tiếng dơ muôn đời
⇒ Cảnh báo bức tranh thảm họa nỗi đau đớn nhục nhac của mất nước thân làm nô lệ.
d. Lời kêu gọi
Ở phần này tác giả đã thể hiện lời kêu gọi nhưng đồng thời cũng là mệnh lệnh:
- Học tập binh thư yếu lược
- Vạch ra hai con đường sống - chết; vinh- nhục
- Để tướng sĩ thấy rõ và chỉ có thể lựa chọn một con đường: địch hoặc ta
⇒ Lập luận sắc bén, rõ ràng, thái độ cương quyết. Bày tỏ gan ruột của một chủ tướng yêu nước.
Việc nhất tề đồng lòng chiến đấu sẽ mang đến nhiều lợi ích:
- Thái ấp vững bền, bổng lộc được hưởng thụ
- Gia quyến ấm êm, vợ con bách niên giai lão
- Tổ tiên được tế lễ, thờ cúng
- Trăm năm sau còn lưu tiếng thơm
⇒ Khích lệ động viên đến mức cao nhất ý chí và quyết tâm chiến đấu của tướng sĩ.
4. Lập luận.
Trần Quốc Tuấn đã sắp xếp hệ thống luận điểm hợp lí, thuyết phục:
- Khích lệ nhiều mặt để tập trung vào một hướng.
- Khích lệ từ ý chí lập công danh, lòng tự trọng cá nhân, tự tôn dân tộc đến lòng căm thù giặc, tinh thần trung quân ái quốc, nghĩa tình cốt nhục... để cuối cùng khích lệ lòng yêu nước bất khuất, quyết chiến quyết thắng kẻ thù xâm lược.
5.Trách nhiệm của các tướng sĩ với đất nước trong việc chống quân Mông - Nguyên xâm lược:
Qua văn bản, Trần Quốc Tuấn đã thể hiện quan điểm về trách nhiệm của các tướng sĩ với đất nước trong việc chống quân Mông - Nguyên:
- Phải có lòng trung quân ái quốc; có lòng căm thù giặc, thấy giặc ngang nhiên, hống hách thì cần phải biết nhục mà cố gắng luyện binh để đánh giặc;
- Có lòng yêu nước và quyết tâm chống giặc.
6. Hào khí Đông A trong văn bản Hịch tướng sĩ:
Văn bản Hịch tướng sĩ là bản anh hùng ca thể hiện chí khí hào hùng, của anh hùng nhà Trần.
Bài hịch đã thể hiện lòng căm thù giặc sục sôi, nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng, sẵn sàng xả thân để bảo vệ giang sơn, xã tắc.
Lòng yêu nước, chí khí hào hùng ấy chính là hào khí Đông A của quân dân nhà Trần, và được thể hiện trong Hịch tướng sĩ.
7. Ý nghĩa của văn bản.
Tình yêu nước là tình cảm đã có từ xa xưa, sẵn có trong mỗi con người. Đối với người Việt, như trong văn bản Tinh thần yêu nước của nhân dân ta, Hồ Chí Minh cũng đã từng viết: "Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Qua văn bản Hịch tướng sĩ, ta càng cảm thấy biết ơn công lao to lớn của những người đã cống hiến cho Tổ quốc.
IV. Luyện tập
Trả lời các câu hỏi trắc nghiệm
Câu 1: Người ta thường viết hịch khi nào?
- Khi đất nước có giặc ngoại xâm
- Khi đất nước thanh bình
- Khi đất nước phồn vinh
- Khi đất nước vừa hết chiến tranh
Câu 2: Hịch tướng sĩ được viết theo kiểu văn gì?
- Văn xuôi
- Văn vần
- Văn biền ngẫu
- Cả A, B, C đều sai
Câu 3: Trần Quốc Tuấn sáng tác Hịch tướng sĩ khi nào?
- Trước khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta lần thứ nhất (1257)
- Trước khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta lần thứ hai (1285)
- Trước khi quân Mông - Nguyên xâm lược nước ta lần thứ ba (1287)
- Sau chiến thắng quân Mông- Nguyên lần thứ hai
Câu 4: Tác giả đã sử dụng biện pháp gì khi nêu gương các bậc trung thần nghĩa sĩ ở phần mở đầu?
- So sánh.
- Liệt kê.
- Cường điệu.
- Nhân hoá.
Câu 5: Dụng ý của tác giả thể hiện qua câu : "Huống chi ta cùng các ngươi sinh phải thời loạn lạc, lớn gặp buổi gian nan”?
- Thể hiện sự thông cảm với các tướng sĩ.
- Kêu gọi tinh thần đấu tranh của các tướng sĩ.
- Miêu tả hoàn cảnh sinh sống của mình cũng như của các tướng sĩ.
- Khẳng định mình và các tướng sĩ là những người cùng cảnh ngộ.
Câu 6: Từ nào có thể thay thế từ “vui lòng” trong câu “Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng” ?
- Cam chịu
- Cam lòng
- Bình thường
- Mặc kệ
Câu 7: Trong Hịch tướng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã vận dụng sáng tạo kết cấu chung của thể hịch như thế nào ?
- Không nêu phần đặt vấn đề riêng.
- Không nêu truyền thống vẻ vang trong sử sách.
- Không nêu giải pháp và lời kêu gọi chiến đấu.
- Cả A, B, C đều sai.
Câu 8: Đoạn văn nào thể hiện dõ nhất lòng yêu nước, căm thù giặc của Trần Quốc Tuấn?
- Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân ta phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác ta gói trong da ngựa, ta cũng vui lòng.
- Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dậy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà chịu đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc...
- Chẳng những thái ấp của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên…
- Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ bỏ mạng vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được
Biên soạn: GV Nguyễn Duy Tuấn
SĐT: 0945 441181
Đơn vị: Trung Tâm Đức Trí - 0286 6540419
Địa chỉ: 26/5 đường số 4, KP 3, P. Bình Hưng Hòa A, Q. Bình Tân, TP. HCM
Fanpage: https://www.fb.com/ttductri